Phóng to

Hai thử nghiệm lâm sàng lớn so sánh liệu pháp xạ trị toàn bộ vú với xạ trị một phần vú ở một số phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn đầu.

Tín dụng: Lancet Oncology tháng 9 năm 2017. doi: 10.1016/S0140-6736(17)31145-5 CC BY 4.0

Kết quả mới từ hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy rằng một trong hai loại xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn vú cho phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn đầu có thể làm giảm nguy cơ ung thư quay trở lại.

Trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, cả chiếu xạ toàn bộ vú (WBI) và chiếu xạ một phần vú cấp tốc (APBI) đều có liên quan đến tỷ lệ thấp ung thư tái phát ở vú nơi bệnh phát triển ban đầu. Thời gian theo dõi trung bình dao động từ hơn 5 năm đến hơn 10 năm.

Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Canada đã trình bày kết quả từ cả hai thử nghiệm tại Hội nghị chuyên đề về ung thư vú ở San Antonio vào ngày 6 tháng 12.

WBI thường được dùng cho toàn bộ vú trong một đợt điều trị 5 ngày một tuần trong 4 đến 6 tuần. Để so sánh, APBI chỉ được sử dụng cho phần vú đã hoặc đang có ung thư ở đó và quá trình điều trị hoàn tất sau một tuần hoặc ít hơn.

So sánh trực tiếp

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng sau khi chẩn đoán ung thư vú giai đoạn đầu, phẫu thuật cắt bỏ khối u sau đó là WBI sẽ làm giảm nguy cơ ung thư tái phát ở cùng một bên vú. Nhưng nhiều phụ nữ không được xạ trị theo khuyến nghị vì nhiều lý do, bao gồm cả sự bất tiện khi di chuyển đến một trung tâm điều trị xa.

Bằng cách cung cấp liều phóng xạ lớn hơn cho từng cá nhân trong các đợt điều trị ít hơn, APBI đã nổi lên như một phương pháp thay thế cho WBI. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bằng cách điều trị vùng vú gần khối u ban đầu, APBI có thể làm giảm tái phát.

Các thử nghiệm mới cung cấp sự so sánh trực tiếp giữa hai phương pháp với quá trình theo dõi lâu dài.

Ví dụ, trong nghiên cứu ở Hoa Kỳ, hơn 95% người tham gia trong mỗi nhóm điều trị—những người nhận WBI hoặc APBI—không bị tái phát trong thời gian theo dõi trung bình 10 năm sau khi kết thúc điều trị. Các nhà điều tra với thử nghiệm RAPID của Canada đã báo cáo kết quả tương tự, mặc dù thời gian theo dõi trung bình ngắn hơn.

Larissa Korde, MD, thuộc Chương trình Đánh giá Trị liệu Ung thư của NCI cho biết: “Trong cả hai nghiên cứu—và trong cả hai nhóm điều trị—kết quả nhìn chung đều rất tốt. Cô ấy tiếp tục, những bệnh nhân bị ung thư vú giai đoạn đầu, “có thể sử dụng thông tin này để quyết định xem liệu APBI có phải là liệu trình phù hợp với cá nhân họ hay không.”

Theo dõi bệnh nhân trong hơn một thập kỷ

Dự án bổ trợ cho vú và ruột trong phẫu thuật quốc gia (NSABP) do NCI hỗ trợ, hiện là một phần của NRG Oncology, đã dẫn đầu thử nghiệm giai đoạn 3 của Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu của NSABP đã chỉ định ngẫu nhiên 4.216 bệnh nhân ung thư vú vừa được phẫu thuật cắt bỏ khối u để điều trị bằng APBI hoặc WBI.

Trong nhóm này, 25% bị ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS), 65% bị ung thư vú giai đoạn 1 và 10% bị ung thư vú giai đoạn 2. 81% bệnh nhân bị ung thư dương tính với thụ thể hormone và 61% bệnh nhân đã mãn kinh.

Những phụ nữ được chỉ định vào APBI đã được xạ trị áp sát (một hình thức xạ trị bên trong) hoặc xạ trị chùm tia bên ngoài phù hợp ba chiều (3D-CRT)

Sau thời gian theo dõi trung bình là 10,2 năm, 161 bệnh nhân bị ung thư vú tái phát: 90 bệnh nhân dùng APBI và 71 bệnh nhân dùng WBI. Có sự khác biệt khiêm tốn giữa các nhóm về tác dụng phụ.

“Một lựa chọn chấp nhận được cho nhiều phụ nữ”

Frank Vicini, MD, thuộc Khoa Ung thư Thế kỷ 21 của Michigan, người đã trình bày kết quả nghiên cứu của Hoa Kỳ tại San Antonio, cho biết hai phương pháp xạ trị cho kết quả tương tự nhau, nếu không muốn nói là tương đương về mặt thống kê. Ông nói thêm: “Phương pháp xạ trị ít nặng nề hơn của APBI có thể là một lựa chọn chấp nhận được đối với nhiều phụ nữ.

Tiến sĩ Vicini nói rằng mặc dù APBI mang lại “kết quả tốt cho một lượng lớn phụ nữ và vẫn là một lựa chọn tốt”, nhưng kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng có “những giới hạn mà chúng ta có thể cắt giảm” trong lịch trình và liều lượng. xạ trị cho một số bệnh nhân nhất định mà vẫn đạt kết quả tốt.

Theo Tiến sĩ Korde, cần có nhiều nghiên cứu hơn để phát triển các công cụ như dấu ấn sinh học có thể giúp dự đoán bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu nào có thể hưởng lợi nhiều nhất từ WBI hoặc APBI.

Kết quả NHANH CHÓNG

Trong nghiên cứu RAPID, 2.135 bệnh nhân từ Canada, Úc và New Zealand được chỉ định ngẫu nhiên để nhận WBI hoặc APBI. Trong nhóm này, 82% bệnh nhân bị ung thư vú xâm lấn và 18% chỉ bị DCIS. Thời gian theo dõi trung bình là 8,6 năm.

Cả hai nhóm điều trị đều có tỷ lệ tái phát khối u thấp: Trong nhóm APBI, tỷ lệ tái phát tích lũy trong 5 năm và 8 năm lần lượt là 2,3% và 3,0%, trong khi tỷ lệ tương ứng của nhóm WBI là 1,7% và 2,8% , tương ứng.

Các nhà nghiên cứu báo cáo: Mặc dù có ít tác dụng phụ hơn ở những bệnh nhân sử dụng chế độ APBI so với chế độ WBI sau khi điều trị, nhưng có sự gia tăng các tác dụng phụ liên quan đến chế độ APBI sau 3 tháng.

Tiến sĩ Korde lưu ý rằng cả hai thử nghiệm đều thu thập dữ liệu về tác dụng phụ độc hại và ảnh hưởng đến ngoại hình liên quan đến từng loại xạ trị.

Tiến sĩ cho biết: “Sẽ hữu ích nếu có nhiều dữ liệu hơn có thể được sử dụng để hiểu rõ hơn bệnh nhân nào có nguy cơ nhiễm độc thấp với bất kỳ loại xạ trị nào và do đó bệnh nhân nào có thể cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng liệu trình APBI ngắn hơn”. .Korde.

Trong tương lai, cô ấy tiếp tục, “thông tin bổ sung về độc tính từ thử nghiệm NSABP sẽ bổ sung thêm vào cuộc thảo luận quan trọng này.”