Phóng to

Trong các tế bào ung thư, các loại thuốc abemaciclib, palbociclib và ribociclib hoạt động bằng cách ngăn chặn hoạt động của các protein CDK4 và CDK6, có liên quan đến việc thúc đẩy sự phát triển của tế bào.

Tín dụng: Onco Targets Ther tháng 10 năm 2016. doi: 10.2147/OTT.S77033 CC BY 3.0.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã mở rộng việc sử dụng thuốc abemaciclib (Verzenio) đã được phê duyệt ở phụ nữ bị ung thư vú.

Vào ngày 26 tháng 2, cơ quan này đã phê duyệt liệu pháp nhắm mục tiêu như là phương pháp điều trị ban đầu hoặc đầu tay ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triển hoặc di căn có khối u dương tính với thụ thể hoóc môn (HR) và âm tính với HER2.

Theo sự chấp thuận, abemaciclib phải được sử dụng kết hợp với chất ức chế aromatase, một loại liệu pháp hormone.

Abemaciclib là một trong những loại liệu pháp điều trị ung thư nhắm mục tiêu ngăn chặn hoạt động của các protein CDK4 và CDK6 (CDK4/6). Những protein này có thể đóng vai trò là mối đe dọa kép, thúc đẩy sự tiến triển của khối u vú và giúp chúng kháng lại các phương pháp điều trị thường được sử dụng như chất ức chế aromatase.

Hai chất ức chế CDK4/6 khác, ribociclib (Kisqali) và palbociclib (Ibrance), trước đây đã được phê duyệt là phương pháp điều trị đầu tay ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú di căn HER2 dương tính, âm tính.

Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 đã dẫn đến sự chấp thuận của abemaciclib, được gọi là MONARCH 3, loại thuốc này đã làm tăng đáng kể thời gian sống của phụ nữ mà bệnh không tiến triển (sống sót không tiến triển).

Alexandra Zimmer, MD, thuộc Chi nhánh Ung thư Phụ nữ tại Trung tâm Ung thư của NCI giải thích: “Mức độ của tác dụng, khi so sánh với việc sử dụng riêng chất ức chế aromatase, tương tự như tác dụng được quan sát thấy với các chất ức chế CDK4/6 đã được phê duyệt trước đó. Nghiên cứu.

Sự chấp thuận, Tiến sĩ Zimmer tiếp tục, “làm cho abemaciclib trở thành một lựa chọn khác để sử dụng đầu tay cho những bệnh nhân này.”

Cải thiện khả năng sống sót không tiến triển, nhưng một số tác dụng phụ

FDA ban đầu đã phê duyệt abemaciclib vào tháng 10 năm 2017 cho những phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn tiến triển có HER2 dương tính, âm tính và bệnh đã quay trở lại sau khi điều trị bằng thuốc ức chế aromatase hoặc các liệu pháp hormone khác.

MONARCH 3 đã ghi nhận gần 500 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn tiến triển có HR dương tính, HER2 âm tính, những người trước đây chưa được điều trị ung thư giai đoạn cuối. Những người tham gia thử nghiệm được chỉ định ngẫu nhiên để nhận abemaciclib hoặc giả dược, cùng với một trong hai chất ức chế aromatase, anastrozole (Arimidex) hoặc letrozole (Femara). Thử nghiệm được tài trợ bởi Eli Lilly, công ty sản xuất abemaciclib.

Ngoài việc trải nghiệm khả năng sống sót không bệnh tiến triển được cải thiện, nhiều phụ nữ được điều trị bằng abemaciclib và chất ức chế aromatase đã giảm được ít nhất một số kích thước khối u so với những phụ nữ chỉ điều trị bằng chất ức chế aromatase: 59% so với 44%.

Khoảng 20% phụ nữ trong thử nghiệm được điều trị bằng abemaciclib đã phải ngừng điều trị vì tác dụng phụ và hơn 40% phải giảm liều thuốc.

Cũng như các nghiên cứu khác liên quan đến abemaciclib, tác dụng phụ nghiêm trọng thường gặp nhất đối với những người dùng thuốc là tiêu chảy, xảy ra ở khoảng 80% bệnh nhân. Các nhà lãnh đạo thử nghiệm báo cáo rằng tác dụng phụ này thường có thể kiểm soát được với hầu hết các trường hợp tiêu chảy được điều trị bằng các loại thuốc thường dùng và/hoặc giảm liều abemaciclib.

Mệt mỏi và buồn nôn ở mức độ thấp cũng phổ biến ở những phụ nữ được điều trị bằng abemaciclib.

Thuốc ức chế CDK4/6 nào cho bệnh nhân nào?

Andres Forero, MD, người chỉ đạo Chương trình Ung thư Vú tại Đại học Alabama thuộc Trường Y khoa Birmingham, cho biết các chất ức chế CDK4/6 đã được phê duyệt “đã thay đổi cách chúng ta quản lý bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hoóc môn”.

Tiến sĩ Forero tiếp tục, một thách thức lớn đối với các bác sĩ ung thư vào thời điểm này là quyết định chất ức chế CDK4/6 nào là lựa chọn tốt nhất cho một bệnh nhân nhất định. “Đó là câu hỏi triệu đô,” anh nói.

Tiến sĩ Zimmer cho biết, mặc dù có chung mục tiêu phân tử trong tế bào ung thư, nhưng mỗi loại trong số ba loại thuốc đều có tác dụng phụ khác nhau. Và những khác biệt đó có thể giúp xác định bệnh nhân nào có thể nhận được loại thuốc nào tốt nhất.

Ví dụ, tiêu chảy nghiêm trọng phổ biến hơn với abemaciclib so với palbociclib hoặc ribociclib, cô ấy lưu ý. Trong khi đó, sự sụt giảm đáng kể các tế bào bạch cầu (giảm bạch cầu trung tính) phổ biến hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng palbociclib và những bệnh nhân được điều trị bằng ribociclib có nhiều khả năng gặp phải một loại thay đổi nhịp tim gọi là kéo dài khoảng QT.

Tiến sĩ Forero đồng ý rằng các vấn đề sức khỏe khác có thể trở nên trầm trọng hơn bởi từng loại thuốc tương ứng có thể giúp đưa ra quyết định điều trị cho từng bệnh nhân.

Điều gì tiếp theo cho các chất ức chế CDK4/6?

Tiến sĩ Zimmer cho biết, trong số những câu hỏi lớn hơn hiện nay là liệu những phụ nữ đang được điều trị bằng chất ức chế CDK4/6 mà bệnh ung thư bắt đầu tiến triển có nên tiếp tục điều trị cùng với việc bổ sung một liệu pháp khác hay không.

Một câu hỏi khác là liệu chất ức chế CDK4/6 có thể cải thiện kết quả ở phụ nữ bị ung thư giai đoạn đầu hay không. Trên thực tế, cả ba chất ức chế CDK4/6 được FDA chấp thuận đều đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng lớn giai đoạn 3 trên những phụ nữ bị ung thư vú HER2 âm tính, HR dương tính ở giai đoạn đầu, cả dưới dạng tiền phẫu thuật (tân hỗ trợ) và sau phẫu thuật. (bổ sung) điều trị.

Các thử nghiệm khác cũng đang thử nghiệm các chất ức chế CDK4/6 ở phụ nữ bị ung thư vú dương tính với HER2, sử dụng thuốc kết hợp với các liệu pháp nhắm mục tiêu HER2 như trastuzumab (Herceptin) và lapatinib (Tykerb), Tiến sĩ Forero lưu ý.

Ông nói: “Tôi nghĩ rằng cú hích lớn tiếp theo đối với những loại thuốc này sẽ là điều trị ung thư dương tính với HER2.