An illustration of the LAG-3 and PD-1 receptors being blocked by antibody drugs.

Điều trị bằng Opdualag liên quan đến việc nhận hai loại thuốc kháng thể trong cùng một lần truyền. Một loại thuốc chặn protein điểm kiểm tra miễn dịch LAG-3 và loại còn lại chặn protein điểm kiểm tra PD-1.

Tín dụng: Phỏng theo Clinical and Translational Medicine. Tháng 3 năm 2021. https://doi.org/10.1002/ctm2.365. CS BY 4.0.

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt sự kết hợp của hai loại thuốc trị liệu miễn dịch để điều trị một số người bị u ác tính tiến triển. Sự kết hợp bao gồm relatlimab và nivolumab (Opdivo) và sẽ được bán trên thị trường với tên Opdualag.

Cả hai loại thuốc này đều là chất ức chế trạm kiểm soát miễn dịch, nhằm vào các protein được gọi là trạm kiểm soát giúp ngăn hệ thống miễn dịch tạo ra phản ứng mạnh mẽ chống lại tế bào ung thư. Relatlimab chặn một loại protein trên tế bào miễn dịch gọi là LAG-3, trong khi nivolumab chặn một loại protein khác trên tế bào miễn dịch gọi là PD-1. Bằng cách ngăn chặn các protein này, các loại thuốc này có thể giải phóng phản ứng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư.

Relatlimab là loại thuốc đầu tiên được FDA chấp thuận để ngăn chặn hoạt động của LAG-3.

Không giống như các kết hợp thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch khác được FDA chấp thuận, với Opdualag, bệnh nhân được truyền tĩnh mạch có chứa cả hai loại thuốc.

FDA đã phê duyệt sự kết hợp của nivolumab và relatlimab cho những người từ 12 tuổi trở lên mắc khối u ác tính chưa được điều trị trước đó mà không thể phẫu thuật cắt bỏ hoặc đã lan rộng (di căn) trong cơ thể.

Sự chấp thuận dựa trên kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng lớn có tên là TƯƠNG QUAN-047. Nghiên cứu này đã so sánh sự kết hợp giữa nivolumab và relatlimab với nivolumab đơn thuần, đây là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc khối u ác tính không thể phẫu thuật hoặc di căn.

Bristol Myers Squibb, nhà sản xuất nivolumab và relatlimab, đã tài trợ cho cuộc thử nghiệm. Các nhà nghiên cứu đã đo thời gian bệnh nhân sống mà không bị bệnh nặng hơn hoặc tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào, tùy điều kiện nào đến trước (sự sống sót không tiến triển).

Với thời gian theo dõi trung bình là 13,2 tháng, những bệnh nhân dùng nivolumab và relatlimab có thời gian sống không bệnh tiến triển lâu hơn so với những bệnh nhân chỉ dùng nivolumab (10,1 tháng so với 4,6 tháng).

Trong số những bệnh nhân dùng nivolumab và relatlimab, các tác dụng phụ phổ biến nhất là mệt mỏi, phát ban, đau khớp và tiêu chảy. Trong nhóm này, 14,6% bệnh nhân ngừng điều trị do tác dụng phụ, so với 6,7% ở nhóm chỉ dùng nivolumab.

Elad Sharon, MD, người giúp dẫn đầu các thử nghiệm liệu pháp miễn dịch trong Chương trình Đánh giá Liệu pháp Ung thư của NCI nhưng không tham gia vào nghiên cứu cho biết: “Kết quả của nghiên cứu này khá ấn tượng. Tuy nhiên, bác sĩ Sharon cảnh báo rằng cần theo dõi lâu hơn để biết liệu sự kết hợp mới có cải thiện thời gian sống của bệnh nhân (thời gian sống sót chung) so với các phương pháp điều trị khác hay không.

Mở rộng số lượng chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch

Các loại thuốc bổ sung nhắm mục tiêu LAG-3 đang được đánh giá để điều trị đa u tủy, ung thư thực quản hoặc dạ dày và u dây chằng, trong số các loại ung thư khác. Và Opdualag cũng đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng đối với các bệnh ung thư khác, bao gồm ung thư phổi, đại trực tràng và gan.

Thử nghiệm NCI-MATCH gần đây đã thêm một nhóm điều trị mới để đánh giá Opdualag ở những bệnh nhân mắc bệnh ung thư tiến triển sau khi điều trị bằng các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch nhắm vào PD-1 hoặc đối tác liên kết của nó trên tế bào ung thư, PD-L1.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự kết hợp của các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch có thể hiệu quả hơn so với một chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch riêng lẻ để điều trị một số bệnh ung thư. Ví dụ, nivolumab và ipilimumab (Yervoy), ngăn chặn một protein điểm kiểm tra trên các tế bào miễn dịch được gọi là CTLA-4, hiệu quả hơn so với nivolumab đơn độc để điều trị khối u ác tính đã lan đến não.

Sự kết hợp của nivolumab và ipilimumab là một phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho khối u ác tính không thể phẫu thuật hoặc di căn chưa được điều trị trước đó. Xét về thời gian sống không bệnh tiến triển, sự kết hợp giữa nivolumab với ipilimumab và relatlimab với nivolumab đã mang lại kết quả tương tự trong các thử nghiệm lâm sàng.

Tuy nhiên, phác đồ nivolumab-nivolumab của relatlimab dường như có ít tác dụng phụ hơn so với phác đồ nivolumab-ipilimumab. Ít hơn 20% bệnh nhân dùng relatlimab–nivolumab đã báo cáo các tác dụng phụ nghiêm trọng, so với gần 60% bệnh nhân dùng nivolumab–ipilimumab, các tác giả của một bài xã luận đi kèm với kết quả RELATIVITY-047 trên Tạp chí Y học New England lưu ý.

Tiến sĩ Sharon cho biết: “Với các hồ sơ an toàn khác nhau của các chế độ này,” theo thời gian, sẽ rất thú vị để xem liệu sự kết hợp nivolumab và relatlimab có cải thiện khả năng sống sót chung so với nivolumab và ipilimumab hay không.

Ông nói thêm, dữ liệu theo dõi dài hơn từ thử nghiệm RELATIVITY-047 là cần thiết để giúp bệnh nhân và bác sĩ lựa chọn từ các phương án điều trị khác nhau cho khối u ác tính tiến triển.

Kết quả từ cuộc thử nghiệm và ý nghĩa tiềm năng của chúng đối với bệnh nhân đã được thảo luận trong câu chuyện về Dòng chảy Ung thư vào tháng 6 năm 2021.