Tín dụng: Viện nghiên cứu bộ gen người quốc gia

Vào ngày 22 tháng 6, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt sự kết hợp của dabrafenib (Tafinlar®) và trametinib (Mekinist®) để điều trị bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ di căn (NSCLC) có sự thay đổi trong BRAF gen được gọi là đột biến V600E.

Đây là sự chấp thuận đầu tiên dành riêng cho những bệnh nhân mắc loại ung thư phổi này, được gọi là NSCLC di căn dương tính với đột biến BRAF V600E. Khoảng 1-2% khối u phổi chứa đột biến V600E, làm tăng tín hiệu thúc đẩy tăng trưởng thông qua con đường truyền tín hiệu MAPK.

FDA cũng đã phê duyệt Thử nghiệm mục tiêu Oncomine™ Dx để xác định sự hiện diện của đột biến BRAF V600E trong các mẫu bệnh phẩm. Thử nghiệm sàng lọc các mẫu khối u để tìm nhiều dấu ấn sinh học liên quan đến các phản ứng tiềm ẩn đối với các liệu pháp nhắm mục tiêu nhằm chống lại những thay đổi này. Những dấu ấn sinh học này bao gồm những thay đổi trong gen BRAF , ALK , ROS1EGFR .

Bruce E. Johnson, MD, thuộc Viện Ung thư Dana-Farber, người đồng lãnh đạo lưu ý: “Khi chúng tôi mô tả các khối u phổi từ bệnh nhân, đó là một ý tưởng tốt để kiểm tra các mẫu để tìm tất cả những thay đổi có thể được nhắm mục tiêu bởi các loại thuốc khác nhau. các thử nghiệm lâm sàng là cơ sở để FDA chấp thuận liệu pháp phối hợp.

Dabrafenib và trametinib chặn các tín hiệu thúc đẩy tăng trưởng khác nhau trong lộ trình MAPK được kích hoạt bởi đột biến V600E BRAF . Dabrafenib ức chế protein BRAF, trong khi trametinib là chất ức chế MEK.

Kết quả khối u ác tính dẫn đến thử nghiệm ung thư phổi

Vào năm 2014, FDA đã phê duyệt việc kết hợp các loại thuốc này cho những bệnh nhân có khối u ác tính dương tính với đột biến BRAF V600 dựa trên các nghiên cứu cho thấy rằng sự kết hợp này đã cải thiện khả năng sống sót so với chỉ sử dụng dabrafenib. Các nghiên cứu được tài trợ bởi GlaxoSmithKline, lúc đó là nhà sản xuất cả hai loại thuốc. (Các đại lý này hiện thuộc sở hữu của Novartis.)

Kết quả về khối u ác tính đã thúc đẩy Tiến sĩ Johnson và các đồng nghiệp của ông phát triển các thử nghiệm để đánh giá dabrafenib đơn độc và kết hợp với trametinib cho bệnh nhân ung thư phổi dương tính với đột biến BRAF V600E.

Trong thử nghiệm dabrafenib đơn độc, bao gồm 78 bệnh nhân, tỷ lệ đáp ứng chung là 33%. Thời gian sống không bệnh tiến triển trung bình là 5,5 tháng và thời gian sống toàn bộ trung bình là 12,7 tháng.

Thử nghiệm trị liệu kết hợp bao gồm 59 bệnh nhân. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đáp ứng tổng thể là 63% và thời gian sống không bệnh tiến triển trung bình là 9,7 tháng. Tỷ lệ sống sót trung bình vẫn chưa đạt được, nhưng 82% bệnh nhân còn sống sau 6 tháng.

Các tác dụng phụ được báo cáo bởi những bệnh nhân sử dụng liệu pháp phối hợp có tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng tương tự như những tác dụng phụ được báo cáo trước đây ở những bệnh nhân bị u ác tính. Các phản ứng bất lợi phổ biến nhất bao gồm sốt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn và tiêu chảy.

Các phản ứng có hại nghiêm trọng của thuốc xảy ra ở những bệnh nhân được điều trị phối hợp bao gồm lượng natri trong máu thấp hơn bình thường, giảm số lượng bạch cầu, thiếu máu và tăng đường huyết. Do những phản ứng như vậy, dabrafenib đã ngừng sử dụng ở 18% bệnh nhân trong thử nghiệm và trametinib đã ngừng sử dụng ở 19% bệnh nhân.

Các loại ung thư phổi hiếm gặp

Để tuyển chọn 59 người tham gia thử nghiệm kết hợp, các nhà nghiên cứu đã sàng lọc khoảng 6.000 bệnh nhân ung thư phổi. Các tác giả của một bài xã luận đi kèm với nghiên cứu lưu ý: Điều này thể hiện một “thành tích lớn làm nền tảng cho những khó khăn trong việc hoàn thành một thử nghiệm như vậy”.

“Chẩn đoán và điều trị các phân nhóm ung thư phổi hiếm gặp đòi hỏi một cách tiếp cận phối hợp để thu thập mô và chẩn đoán phân tử toàn diện,” Gareth Rivalland, MD, và Paul Mitchell, MD, của Đại học Melbourne, Úc đã viết.

Tiến sĩ Johnson lưu ý: Việc giới thiệu các xét nghiệm di truyền có thể đánh giá đồng thời nhiều dấu ấn sinh học đã giúp việc xác định bệnh nhân mắc các loại ung thư hiếm gặp có thể là ứng cử viên cho một số phương pháp điều trị hiệu quả hơn và tiết kiệm chi phí hơn.

Ông nói: “Công trình này là một ví dụ về y học chính xác và chúng tôi tin rằng câu chuyện này sẽ tiếp tục diễn ra trong những năm tới. Bằng cách mô tả đặc điểm của những thay đổi di truyền trong khối u của bệnh nhân, các bác sĩ có thể chọn một phương pháp điều trị nhằm vào những thay đổi này, nếu có.

Tiến sĩ Johnson nói thêm, thách thức là “xác định những thay đổi di truyền rất quan trọng để biến các tế bào bình thường thành tế bào ung thư và sau đó phát triển các phương pháp điều trị nhắm mục tiêu hiệu quả những thay đổi này.”