Các tế bào của con người với bệnh bạch cầu myelocytic cấp tính.

Tín dụng: Viện Ung thư Quốc gia

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) gần đây đã phê duyệt hai phương pháp điều trị mới cho một số bệnh nhân trưởng thành mắc bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML): enasidenib (Idhifa®), một loại thuốc nhắm vào các dạng protein IDH2 bất thường; và liposomal cytarabine-daunorubicin CPX-351 (Vyxeos™), một sự kết hợp hóa trị hai loại thuốc được gói gọn trong các hạt giống như chất béo nhỏ gọi là liposome.

Sự chấp thuận của Vyxeos, được công bố vào ngày 3 tháng 8, dành cho những bệnh nhân mắc một trong hai dạng AML có nguy cơ cao. Sự chấp thuận enasidenib, được công bố hai ngày trước đó, dành cho người lớn mắc AML có khối u có đột biến gen IDH2 được phát hiện bởi một xét nghiệm được FDA chấp thuận và bệnh của họ đã quay trở lại sau khi điều trị trước đó (tái phát) hoặc không đáp ứng với các phương pháp điều trị tiêu chuẩn (kháng trị ).

Ước tính có khoảng 10–15% người trưởng thành mắc AML có đột biến IDH2 gây ung thư. Enasidenib, được dùng bằng đường uống, là loại thuốc nhắm mục tiêu IDH đầu tiên được FDA chấp thuận.

FDA cũng đã phê duyệt xét nghiệm chẩn đoán đồng hành, xét nghiệm RealTime™ IDH2, để phát hiện đột biến IDH2 và xác định những bệnh nhân có thể hưởng lợi từ thuốc. Richard Little, MD, thuộc Bộ phận Chẩn đoán và Điều trị Ung thư của NCI cho biết: “Sự chấp thuận của enasidenib “là một bước tiến trong y học chính xác đối với AML.

Kết quả đáng chú ý nhưng còn nhiều điều cần tìm hiểu

Sự chấp thuận của Enasidenib dựa trên kết quả của một thử nghiệm lâm sàng đơn lẻ trên 199 bệnh nhân. Tất cả bệnh nhân trong thử nghiệm đều bị AML tái phát hoặc dai dẳng và đột biến IDH2 được phát hiện bằng xét nghiệm RealTime và tất cả đều được điều trị bằng enasidenib.

Cụ thể, FDA phê duyệt dựa trên tỷ lệ và thời lượng của hai kết quả: đáp ứng hoàn toàn và đáp ứng hoàn toàn với phục hồi huyết học một phần (CRh), có nghĩa là không tìm thấy dấu hiệu của bệnh bạch cầu ngoại trừ một số công thức máu hoặc chỉ số lượng tiểu cầu. , chưa trở lại mức bình thường. Cơ quan này cũng trích dẫn phát hiện rằng 34% bệnh nhân, khi tham gia thử nghiệm, cần truyền hồng cầu và/hoặc tiểu cầu không còn cần truyền nữa trong ít nhất một khoảng thời gian 56 ngày khi dùng enasidenib.

Tác dụng phụ thường gặp của thuốc bao gồm vàng da và buồn nôn. Một tác dụng phụ nghiêm trọng được gọi là hội chứng biệt hóa, bao gồm sốt, suy hô hấp và có thể gây tử vong nếu không được điều trị, xảy ra ở 14% bệnh nhân.

Dữ liệu chi tiết từ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I/II của enasidenib cho thấy, nhìn chung, 40% người tham gia nghiên cứu đã phản ứng với enasidenib và 19% đã thuyên giảm hoàn toàn bệnh bạch cầu.

Kết quả được công bố cũng cho thấy tỷ lệ sống sót trung bình là 9,3 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị bằng thuốc nghiên cứu ở tất cả các bệnh nhân trong thử nghiệm và 19,7 tháng ở những bệnh nhân đã thuyên giảm hoàn toàn.

Tiến sĩ Little cho biết việc FDA chấp thuận một phương pháp điều trị dựa trên kết quả của thử nghiệm giai đoạn II trên một nhánh là rất đáng chú ý. Ông nói thêm: Phản ứng và tỷ lệ sống sót tổng thể được thấy trong thử nghiệm tốt hơn so với những gì thường thấy với các phương pháp điều trị hiện tại dành cho người lớn mắc AML tái phát hoặc khó chữa.

Tiến sĩ Little lưu ý: “Trong môi trường này, nơi bệnh nhân có nguy cơ thất bại điều trị cao do đã mắc bệnh bạch cầu tái phát, thì việc đáp ứng hoàn toàn trong hơn 8 tháng là một thời gian dài,” đặc biệt là với một liệu pháp nhắm mục tiêu duy nhất, Tiến sĩ Little lưu ý.

Ông cho biết, việc thuyên giảm trong thời gian đó sẽ cho phép lập kế hoạch và ra quyết định về các liệu pháp khác, chẳng hạn như cấy ghép tế bào gốc dị hợp, có thể chữa khỏi bệnh AML.

Tiến sĩ Little nhấn mạnh rằng “còn nhiều điều cần tìm hiểu” về enasidenib. Ông nói: “Thách thức sẽ là điều tra việc sử dụng tác nhân này ở những bệnh nhân mắc đột biến AML và IDH2 mới được chẩn đoán và tìm hiểu cách kết hợp thuốc với các phương pháp điều trị AML khác để tạo ra sự khác biệt đáng kể trong kết quả của bệnh nhân.

Điều trị dựa trên Liposome là một tiêu chuẩn chăm sóc mới

Trước khi phê duyệt enasidenib, FDA đã phê duyệt Vyxeos cho người lớn mắc hai loại AML có tiên lượng đặc biệt xấu— AML mới được chẩn đoán phát triển sau khi điều trị một loại ung thư khác (t-AML) và AML với những thay đổi liên quan đến chứng loạn sản tủy (AML-MRC).

Vyxeos bao gồm sự kết hợp của hai loại thuốc chống ung thư, daunorubicin và cytarabine, được gói gọn trong một liposome—một hạt nhỏ giống như chất béo. Các liposome được thiết kế để cung cấp khả năng phân phối tối ưu một tỷ lệ cụ thể của hai loại thuốc đã được chứng minh trong các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm là có tác dụng kết hợp lớn hơn so với khi mỗi loại thuốc được sử dụng riêng lẻ.

Và bởi vì các tế bào ung thư có xu hướng hấp thụ liposome hiệu quả hơn so với các tế bào khác, nên liều lượng thuốc được đưa vào các tế bào ung thư bạch cầu cao hơn so với các tế bào bình thường, có thể tăng cường hiệu quả điều trị mà không làm tăng độc tính, Tiến sĩ Little giải thích.

Sự chấp thuận của FDA dựa trên kết quả của một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III chỉ định ngẫu nhiên các bệnh nhân từ 60–75 tuổi cho Vyxeos hoặc phác đồ kết hợp tiêu chuẩn của daunorubicin và cytarabine (được gọi là 7+3), trong đó hai loại thuốc này được sử dụng riêng rẽ. .

Kết quả của thử nghiệm, được trình bày tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ năm 2016, cho thấy tỷ lệ sống trung bình chung là 9,6 tháng ở những bệnh nhân dùng Vyxeos, so với 5,9 tháng ở nhóm đối chứng. Tỷ lệ phản hồi hoàn toàn là 38% ở nhóm được điều trị bằng Vyxeos và 26% ở nhóm đối chứng. Tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm Vyxeos (34%) tiếp tục được ghép tế bào gốc cao hơn so với nhóm đối chứng (25%).

Tác dụng phụ ở hai nhóm điều trị là tương tự nhau. Các tác dụng phụ nghiêm trọng phổ biến nhất bao gồm khó thở, chảy máu, sốt với số lượng bạch cầu thấp và nhịp tim bất thường.

Theo FDA, đây là lần phê duyệt đầu tiên dành riêng cho t-AML và AML-MRC mới được chẩn đoán.

Tiến sĩ Little cho biết công thức dựa trên liposome “sẽ được coi là một tiêu chuẩn chăm sóc mới cho những bệnh nhân lớn tuổi mắc các dạng AML có nguy cơ cao này”.

Đối với enasidenib, “sẽ cần phải thực hiện nhiều công việc hơn nữa để cung cấp thông tin đầy đủ về việc sử dụng Vyxeos bên ngoài [of] các loại bệnh nhân được đưa vào thử nghiệm lâm sàng này,” Tiến sĩ Little lưu ý. “Sự cám dỗ sẽ là sử dụng chế phẩm liposomal ở những bệnh nhân mắc các dạng AML có nguy cơ cao khác, và theo quan điểm của tôi, chúng tôi cần thêm thông tin trước khi biết liệu điều đó có cải thiện kết quả cho những bệnh nhân này hay không.”