Pathology slides from a patient with acute myeloid leukemia that has relapsed (left) and after remission (right).

Các slide bệnh lý từ một bệnh nhân mắc AML với đột biến FLT3 đã tái phát (a) và sau khi thuyên giảm (b).

Tín dụng: Case Rep Hematol. 2016;2016:1259759. doi: 10.1155/2016/1259759. (CC BY 4.0)

Điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu gilteritinib (Xospata) có thể cải thiện khả năng sống sót so với hóa trị liệu đối với một số người mắc bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML), kết quả mới từ một thử nghiệm lâm sàng lớn cho thấy.

Tất cả những người tham gia tham gia thử nghiệm đều mắc AML với các đột biến cụ thể trong gen FLT3 đã quay trở lại sau lần điều trị trước đó (tái phát) hoặc không đáp ứng với điều trị (bệnh dai dẳng). Điều trị bằng Gilteritinib làm tăng thời gian sống sót trung bình gần 4 tháng so với hóa trị liệu tiêu chuẩn. Những người tham gia dùng gilteritinib cũng có tỷ lệ thuyên giảm hoàn toàn cao hơn và ít tác dụng phụ nghiêm trọng hơn so với những người dùng hóa trị.

Những phát hiện được công bố vào ngày 31 tháng 10 trên Tạp chí Y học New England .

Vào tháng 11 năm 2018, Hiệp hội Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt gilteritinib để điều trị cho người lớn mắc AML kháng thuốc hoặc tái phát đột biến FLT3 , dựa trên kết quả tạm thời về tỷ lệ đáp ứng từ thử nghiệm này. Vào thời điểm đó, FDA cũng đã phê duyệt một xét nghiệm chẩn đoán đồng hành để phát hiện các đột biến kích hoạt FLT3 .

Kết quả thử nghiệm mới “cho thấy một cách thuyết phục rằng đây là con đường phía trước, đây là cách chúng ta nên điều trị cho bệnh nhân mắc loại AML này,” nhà điều tra chính của thử nghiệm Alexander Perl, MD, thuộc Trung tâm Ung thư Abramson tại Đại học Pennsylvania cho biết. .

“AML tái phát/kháng trị là một căn bệnh thực sự khủng khiếp và đây là một phát hiện rõ ràng về khả năng sống sót được cải thiện ở những người được điều trị bằng liệu pháp nhắm mục tiêu so với hóa trị liệu thông thường,” Christopher Hourigan, MD, D.Phil cho biết. , trưởng phòng thí nghiệm khối u ác tính tủy tại Viện Tim, Phổi và Máu Quốc gia. “Đó là một bước tiến rõ ràng, gia tăng trong tiêu chuẩn chăm sóc.”

Nhắm mục tiêu FLT3 cải thiện khả năng sống sót

Tiến sĩ Perl giải thích, những người mắc AML với một số đột biến FLT3 nhất định thường mắc bệnh nặng và khả năng sống sót kém.

Những đột biến trong gen FLT3 này làm cho protein FLT3 luôn hoạt động trong các tế bào ung thư bạch cầu, có thể thúc đẩy sự sinh sôi và tồn tại của chúng. Đây là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã coi FLT3 là mục tiêu tốt để điều trị ung thư.

Gilteritinib, một loại liệu pháp điều trị ung thư nhắm mục tiêu được gọi là chất ức chế tyrosine kinase, tiêu diệt các tế bào ung thư bạch cầu bằng cách liên kết với protein FLT3 đột biến và ngăn chặn hoạt động của nó.

Các chất ức chế FLT3 khác đang được thử nghiệm hoặc được phê duyệt để điều trị AML. Vào năm 2017, FDA đã phê duyệt midostaurin (Rydapt) cho người lớn được hóa trị liệu cho bệnh AML mới được chẩn đoán có đột biến FLT3 .

Tuy nhiên, đối với AML tái phát và kháng trị, “gilteritinib đã thành công nhất trong phòng khám về tỷ lệ đáp ứng với tư cách là một tác nhân duy nhất, khả năng dung nạp, thời gian đáp ứng và khả năng tránh một số cơ chế kháng thuốc phổ biến đối với FLT3 Tiến sĩ Perl nói.

371 người tham gia thử nghiệm, được gọi là ADMIRAL, được chỉ định ngẫu nhiên để nhận gilteritinib hoặc hóa trị liệu tiêu chuẩn.

Những bệnh nhân sử dụng gilteritinib không chỉ sống lâu hơn so với những bệnh nhân sử dụng hóa trị liệu (thời gian sống sót trung bình là 9,3 tháng so với 5,6 tháng), mà họ còn có nhiều khả năng đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn với việc trả lại toàn bộ hoặc một phần số lượng bạch cầu của họ về mức bình thường (34% bệnh nhân dùng gilteritinib so với 15% bệnh nhân dùng hóa trị liệu).

Các tác dụng phụ nghiêm trọng phổ biến nhất đối với những người trong nhóm gilteritinib là sốt kèm theo giảm một số tế bào bạch cầu, thiếu máu và số lượng tiểu cầu thấp. Khoảng 11% bệnh nhân dùng gilteritinib đã ngừng dùng vì tác dụng phụ.

Tiến sĩ Perl cho biết, Gilteritinib cũng được cung cấp ở dạng thuốc viên, giúp sử dụng dễ dàng và thuận tiện hơn so với hóa trị.

Các nghiên cứu sâu hơn cần thiết để tiếp tục tiến bộ

Kết quả thử nghiệm “không phải là quyết định cuối cùng về cách điều trị AML tái phát hoặc dai dẳng,” Tiến sĩ Perl nói. Ông nhấn mạnh, bất chấp sự cải thiện về tỷ lệ sống sót, tỷ lệ sống sót lâu dài trong nghiên cứu này vẫn còn thấp ở cả hai nhóm điều trị.

Ông nói: “Chúng tôi chắc chắn đang đạt được những bước tiến, nhưng chúng tôi thực sự còn một chặng đường dài phía trước để cải thiện kết quả cho những bệnh nhân mắc AML tái phát hoặc kháng trị có đột biến FLT3 .

Các nghiên cứu đang thực hiện đang cho sử dụng gilteritinib sớm hơn trong quá trình điều trị bệnh và kết hợp với các liệu pháp khác, cũng như điều tra lý do tại sao một số bệnh nhân có đột biến FLT3 không đáp ứng hoặc phát triển khả năng kháng gilteritinib.

Ngoài ra, các thử nghiệm lâm sàng đang so sánh gilteritinib với các chất ức chế FLT3 khác. Ví dụ, trong một thử nghiệm lâm sàng, những bệnh nhân mắc AML đột biến FLT3 chưa được điều trị sẽ nhận được gilteritinib hoặc midostaurin kết hợp với hóa trị liệu.

Các nhà nghiên cứu cũng đang thử nghiệm gilteritinib như một liệu pháp duy trì cho những bệnh nhân mắc AML đột biến FLT3 đang thuyên giảm sau khi điều trị ban đầu bằng hóa trị hoặc sau khi ghép tế bào gốc.

Tiến sĩ Perl nói: “Gilteritinib là một xương sống tốt để xây dựng, nhưng, một mình nó không phải là câu trả lời cuối cùng.”

Tiến sĩ Hourigan đồng ý. Ông cũng lưu ý rằng khả năng sống sót lâu dài của bệnh nhân trong thử nghiệm là rất thấp và nhấn mạnh rằng cần phải đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa.

Ông nói: “Chúng ta cần phải thông minh về cách kết hợp gilteritinib với các loại thuốc nhắm mục tiêu phân tử khác, cách chúng ta tính thời gian cho hóa trị và cấy ghép cũng như cách chúng ta tiếp tục phát triển dựa trên phát hiện này. “Thật tuyệt vời khi gilteritinib có thể cải thiện khả năng sống sót của bệnh nhân so với liệu pháp thông thường—đó là niềm hy vọng của y học chính xác. Chúng tôi muốn sự sống còn đó kéo dài hơn nữa.”