Mô hình thuốc olaparib liên kết với một phần của enzym PARP1 trong tế bào ung thư, ngăn enzym này sửa chữa DNA bị hư hỏng.

Tín dụng: Dawicki-McKenna JM, Tế bào phân tử 2015. doi:10.1016/j.molcel.2015.10.013

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã cấp phép thường xuyên cho thuốc viên olaparib (Lynparza®) để điều trị duy trì cho những bệnh nhân bị ung thư biểu mô buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát tái phát đang có phản ứng một phần hoặc hoàn toàn với hóa trị liệu dựa trên bạch kim. Bệnh nhân có thể sử dụng thuốc bất kể họ có di truyền đột biến gen BRCA hay không.

Liệu pháp duy trì này được đưa ra để giúp ngăn ngừa ung thư phát triển hoặc quay trở lại sau khi nó đã giảm kích thước hoặc biến mất sau liệu pháp điều trị bệnh tái phát.

Olaparib là thành viên của nhóm thuốc được gọi là chất ức chế PARP, ngăn chặn hoạt động của protein PARP. Những protein này giúp sửa chữa DNA bị hư hỏng trong tế bào và việc ức chế protein PARP có thể dẫn đến tổn thương DNA thêm và chết tế bào.

“Olaparib là một tiến bộ khác dành cho phụ nữ bị ung thư buồng trứng và sự chấp thuận này mở rộng khả năng sử dụng các chất ức chế PARP,” Elise Kohn, MD, trưởng bộ phận Điều trị Ung thư Phụ khoa thuộc Khoa Điều trị và Chẩn đoán Ung thư của NCI cho biết. “Những loại thuốc này là một nhóm tác nhân mới quan trọng.”

Một lựa chọn khác cho bác sĩ và bệnh nhân

Tiến sĩ Kohn lưu ý rằng sự chấp thuận này sẽ mang lại cho các bác sĩ và bệnh nhân ung thư buồng trứng một sự lựa chọn. Một chất ức chế PARP khác, niraparib (Zejula™), đã được phê duyệt vào đầu năm nay như là liệu pháp duy trì cho bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát cho dù họ có mang đột biến gen BRCA hay không.

Vào năm 2014, FDA đã phê duyệt viên nang olaparib để điều trị ung thư buồng trứng tiến triển ở những bệnh nhân có đột biến BRCA di truyền đã nhận được ba loại hóa trị liệu trở lên. Viên nén Olaparib hiện đã được phê duyệt cho nhóm bệnh nhân này.

Các viên nang sẽ bị ngừng sản xuất tại Hoa Kỳ, nhưng FDA cho biết rằng các viên nang sẽ có sẵn (thông qua Mạng lưới Nhà thuốc Chuyên khoa Lynparza) cho những bệnh nhân hiện đang nhận chúng cho chỉ định năm 2014. FDA lưu ý trong một thông cáo báo chí rằng viên nén và viên nang Olaparib không thể hoán đổi cho nhau.

Tiến sĩ Kohn cho biết: “Mỗi viên nang chỉ có 50mg, vì vậy bệnh nhân dùng tổng cộng 16 viên mỗi ngày. “Viên nén có kích thước nhỏ hơn, 100 mg hoặc 150 mg, vì vậy bệnh nhân chỉ phải uống 4 hoặc 6 viên mỗi ngày.”

Kết quả thử nghiệm lâm sàng

Việc phê duyệt olaparib để điều trị duy trì dựa trên hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên liên quan đến bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát.

Trong thử nghiệm Nghiên cứu 19, 265 bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên dùng viên nang olaparib hoặc giả dược, bao gồm 136 bệnh nhân có đột biến gen BRCA . Thời gian sống không bệnh tiến triển trung bình ước tính (PFS) là 8,4 tháng đối với nhóm olaparib và 4,8 tháng đối với nhóm giả dược. Đối với những người có đột biến gen BRCA , PFS trung bình là 11,2 tháng so với 4,3 tháng đối với giả dược.

Trong thử nghiệm, điều trị duy trì bằng olaparib làm giảm 65% nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong so với giả dược đối với phụ nữ bị ung thư buồng trứng, bất kể tình trạng của gen BRCA .

Thử nghiệm SOLO-2 được tiến hành một phần để xác nhận những phát hiện từ thử nghiệm Nghiên cứu 19. Trong nghiên cứu SOLO-2, 295 bệnh nhân có đột biến gen BRCA di truyền được chỉ định ngẫu nhiên để nhận thuốc viên olaparib hoặc giả dược.

PFS trung bình ước tính là 19,1 tháng đối với nhóm olaparib và 5,5 tháng đối với nhóm giả dược. Trong thử nghiệm này, olaparib duy trì làm giảm 70% nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong so với giả dược đối với bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát và đột biến gen BRCA .

Các tác giả nghiên cứu lưu ý rằng điều trị duy trì bằng viên nén olaparib “được dung nạp tốt, không có dấu hiệu an toàn mới và độc tính có thể kiểm soát được”. Thiếu máu, mệt mỏi và giảm bạch cầu trung tính là một trong những tác dụng phụ phổ biến nhất ở nhóm olaparib. Các tác dụng phụ nghiêm trọng phổ biến nhất ở những bệnh nhân này là thiếu máu, đau bụng và tắc ruột.

Mặc dù kết quả SOLO-2 cho thấy “sự chậm phát triển khối u rõ rệt”, Tiến sĩ Kohn cho biết, vẫn còn quá sớm để biết liệu phương pháp điều trị duy trì có giúp bệnh nhân sống lâu hơn hay không.