Phóng to

Các chất ức chế PARP như niraparib ngăn chặn khả năng sửa chữa DNA bị hư hỏng của protein PARP, dẫn đến tổn thương DNA hơn nữa và chết tế bào.

Tín dụng: Viện Ung thư Quốc gia

CẬP NHẬT : Vào tháng 11 năm 2022, việc phê duyệt niraparib làm liệu pháp duy trì cho phụ nữ bị ung thư buồng trứng giai đoạn cuối đã trải qua một thay đổi quan trọng. Phương pháp điều trị hiện chỉ có thể được chỉ định cho những phụ nữ có hoặc nghi ngờ có đột biến di truyền (còn gọi là đột biến “dòng mầm”) trong gen BRCA1 hoặc BRCA2 . Sự thay đổi được yêu cầu bởi FDA dựa trên dữ liệu sống sót tổng thể từ thử nghiệm được mô tả bên dưới.

Vào ngày 27 tháng 3, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt niraparib (Zejula) cho một số phụ nữ bị ung thư buồng trứng giai đoạn cuối.

Niraparib là một trong những loại thuốc được gọi là chất ức chế PARP, hoạt động bằng cách phá vỡ khả năng sửa chữa tổn thương DNA của tế bào ung thư. Sự chấp thuận làm cho niraparib trở thành chất ức chế PARP thứ ba được FDA chấp thuận để điều trị ung thư buồng trứng.

Sự chấp thuận bao gồm việc sử dụng niraparib như một liệu pháp duy trì ở những phụ nữ đã tái phát biểu mô huyết thanh mức độ cao của buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát nhưng đã có phản ứng khối u hoàn toàn hoặc một phần với hóa trị liệu dựa trên bạch kim.

Niraparib, được dùng dưới dạng thuốc viên, được chấp thuận sử dụng cho dù bệnh nhân có dòng mầm hoặc di truyền, đột biến gen BRCA1 hoặc BRCA2 hay không. (FDA đã thay đổi sự chấp thuận này vào tháng 11 năm 2022. Xem hộp cập nhật ở đầu trang này để biết chi tiết.)

Elise Kohn, MD, trưởng bộ phận Điều trị Ung thư Phụ khoa thuộc Khoa Điều trị và Chẩn đoán Ung thư của NCI cho biết: “Sự phát triển và phê duyệt của một số chất ức chế PARP là một bước tiến quan trọng trong điều trị ung thư buồng trứng.

Và nghiên cứu về việc sử dụng chúng đang nhanh chóng mở rộng sang các bệnh ung thư khác, Tiến sĩ Kohn tiếp tục, bao gồm ung thư vú, tuyến tiền liệt, tuyến tụy và dạ dày.

“Đó là sự khởi đầu của một lớp tác nhân mới: lớp chất ức chế sửa chữa DNA,” cô nói.

Điều trị ung thư có hoặc không có đột biến BRCA

Đây là sự chấp thuận đầu tiên của FDA đối với niraparib. Nó đã được phê duyệt dựa trên một thử nghiệm ngẫu nhiên với hơn 550 bệnh nhân đã từng bị tái phát ung thư buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc ung thư phúc mạc nguyên phát ở mức độ cao.

Tất cả các bệnh nhân trong thử nghiệm đã trải qua ít nhất hai đợt điều trị bằng hóa trị liệu dựa trên bạch kim và bệnh ung thư của họ đã đáp ứng hoàn toàn hoặc một phần với phương pháp điều trị gần đây nhất. Bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên để nhận niraparib hoặc giả dược. Điểm cuối chính là khoảng thời gian bệnh nhân sống mà bệnh không tiến triển.

Thử nghiệm bao gồm hai nhóm phụ nữ: những người có và không có đột biến gen BRCA . Trong số những phụ nữ có đột biến gen BRCA ở dòng mầm, những người dùng niraparib có thời gian sống không bệnh tiến triển trung bình là 21 tháng, so với 5,5 tháng đối với những phụ nữ dùng giả dược. Trong số những phụ nữ không có đột biến BRCA , tỷ lệ sống không bệnh tiến triển trung bình là 9,3 tháng đối với những người dùng niraparib và 3,9 tháng đối với những người dùng giả dược.

Một số tác dụng phụ phổ biến nhất đối với bệnh nhân dùng niraparib là thiếu máu, đánh trống ngực, buồn nôn và mệt mỏi. Thuốc có nguy cơ gây ra một số tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm sự phát triển của hội chứng loạn sản tủy và bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính.

Tiến sĩ Kohn cảnh báo: Kết quả của thử nghiệm này, lần đầu tiên được công bố vào năm ngoái trên Tạp chí Y học New England , tập trung vào khả năng sống sót không tiến triển. “Chúng tôi không biết liệu điều trị duy trì bằng niraparib trong môi trường này có kéo dài thời gian sống sót chung hay không. Chúng ta sẽ phải đợi sự trưởng thành của những dữ liệu này.”

Tiến sĩ Kohn tiếp tục: Phụ nữ bị ung thư buồng trứng tái phát nhạy cảm với bạch kim thường tiếp tục nhận được nhiều phác đồ điều trị khác trong suốt quá trình mắc bệnh, điều này có thể gây khó khăn cho việc xác định tác động của một phương pháp điều trị đối với khả năng sống sót chung.

Các bước tiếp theo trong nghiên cứu

Vì các chất ức chế PARP ngăn chặn các tế bào ung thư sửa chữa DNA bị hư hỏng, chúng đã được chứng minh là đặc biệt hiệu quả đối với các tế bào ung thư đã có cơ chế sửa chữa DNA bị lỗi, chẳng hạn như những tế bào có đột biến BRCA .

Hai chất ức chế PARP khác được FDA chấp thuận, olaparib (Lynparza®) và rucaparib (Rubraca™), đã được chấp thuận cho những bệnh nhân mắc bệnh tiến triển đã được điều trị trước đó bằng ít nhất ba và hai chế độ hóa trị liệu tương ứng.

Nhưng cả hai loại thuốc đều được phê duyệt là phương pháp điều trị thay vì điều trị duy trì và dành cho những phụ nữ có đột biến gen BRCA gây hại. Rucaparib cũng được chấp thuận cho những phụ nữ có đột biến gen BRCA gây hại hoặc không di truyền. FDA đã cấp phép xem xét ưu tiên olaparib để sử dụng như một liệu pháp duy trì vào tháng trước.

Tiến sĩ Kohn cho biết các câu hỏi chính cho nghiên cứu bổ sung bao gồm xác định các dấu ấn sinh học có thể dự đoán ai có nhiều khả năng được hưởng lợi nhất từ các chất ức chế PARP hoặc các chất ức chế sửa chữa DNA khác, các loại thuốc có hiệu quả tiềm năng để sử dụng kết hợp với các chất ức chế PARP, cơ chế kháng thuốc và cách thức các cơ chế này có thể vượt qua.

Cô ấy nói thêm: “Những câu hỏi này có thể áp dụng cho bệnh ung thư buồng trứng bây giờ. “Nhưng khi các dấu hiệu tiếp theo được xác định cho loại tác nhân mới này, chúng cũng sẽ áp dụng cho các bệnh ung thư khác.”