Chẩn đoán quá mức thường được định nghĩa là chẩn đoán một bệnh hoặc tình trạng không có khả năng gây hại.

Tín dụng: iStock

Trong năm thứ ba liên tiếp, các chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới sẽ triệu tập để thảo luận về tình trạng tiến thoái lưỡng nan của việc chẩn đoán quá mức đối với nhiều loại bệnh. Chẩn đoán quá mức thường được định nghĩa là chẩn đoán một bệnh hoặc tình trạng không có khả năng gây hại.

Hội nghị, Ngăn ngừa chẩn đoán quá mức, sẽ diễn ra từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 9 tại Bethesda, MD. Barry Kramer, MD, giám đốc Bộ phận Phòng chống Ung thư của NCI, và là thành viên của ban chỉ đạo hội nghị, giải thích rằng hội nghị năm nay có một số lĩnh vực được nhấn mạnh, bao gồm cách tốt nhất để truyền đạt mối quan tâm về chẩn đoán quá mức cho bác sĩ và công chúng, xác định nguyên nhân gốc rễ của chẩn đoán quá mức và ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tác hại của nó.

Tiến sĩ Kramer đã đóng một vai trò nổi bật trong nghiên cứu để xác định và ngăn ngừa chẩn đoán quá mức ung thư, mà các nghiên cứu cho rằng có thể được kích hoạt bằng cách sàng lọc rộng rãi. Ví dụ, mặc dù một số xét nghiệm sàng lọc có thể phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm nhất, Tiến sĩ Kramer đã nỗ lực hết sức để xem xét kỹ lưỡng hơn các rủi ro của sàng lọc, bao gồm chẩn đoán quá mức và dẫn đến điều trị quá mức.

Tiến sĩ Kramer giải thích: “Một trong những vấn đề chính hiện nay là chúng ta chỉ có thể phát hiện chẩn đoán quá mức ở cấp độ dân số, vì nó thực chất là tác hại ‘vô hình’ ở cấp độ cá nhân đối với cả chuyên gia y tế và bệnh nhân. “Chén Thánh của chúng tôi là có thể phát hiện ra nó ở cấp độ cá nhân và giảm thiểu mọi tác hại có thể xảy ra trước khi chúng có thể xảy ra.”

Ông chỉ ra rằng để đạt được điểm này, các nhà nghiên cứu sẽ cần phát triển các dấu vân tay phân tử cho phép các bác sĩ phân biệt các tổn thương có khả năng tiến triển thành ung thư có khả năng gây tử vong cao nhất với những tổn thương không có khả năng tiến triển hoặc gây ra bất kỳ tác hại nào.

Một thách thức quan trọng khác là ngôn ngữ được sử dụng để mô tả một số tổn thương ở giai đoạn rất sớm. Có lẽ ví dụ điển hình nhất là ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS), sự hiện diện của các tế bào trong ống dẫn vú có vẻ như là ung thư nhưng không xâm lấn. Một số nhà nghiên cứu đã gợi ý rằng sự hiện diện của “ung thư biểu mô” trong tên của tình trạng này có thể kích hoạt các phương pháp điều trị tích cực vì bản chất đáng báo động của thuật ngữ này.

Tiến sĩ Kramer cho biết: “Một ví dụ về cách chúng tôi có thể thay đổi danh pháp là ung thư cổ tử cung, nơi chúng tôi thường gọi các tổn thương tiền ung thư là ung thư biểu mô tại chỗ. “Nhưng chúng tôi đã có thể tạo ra sự thay đổi giữa các bác sĩ và cách họ giao tiếp với bệnh nhân của mình, và những tổn thương này không còn được mô tả là ung thư biểu mô nữa mà hiện nay thường được gọi là tân sinh trong biểu mô cổ tử cung, tổn thương nội biểu mô vảy hoặc loạn sản.”

Ông nói, kết quả là “giảm đáng kể báo động gắn liền với chẩn đoán.” Ông tiếp tục, đây là một minh chứng rõ ràng về cách thuật ngữ có thể thay đổi nhận thức và cách các bác sĩ hoặc bệnh nhân hành động theo nhận thức đó.

Tiến sĩ Kramer cho biết, thay đổi thông tin liên lạc về chẩn đoán quá mức là trọng tâm chính của hội nghị năm nay. Ông tin rằng việc thay đổi nhận thức của công chúng sẽ là một quá trình chậm chạp. Trong khi hầu hết các phương tiện truyền thông đưa tin về những tiến bộ trong điều trị và thử nghiệm lâm sàng đều kèm theo những câu chuyện cá nhân hoặc giai thoại về sự thành công của bệnh nhân, thì đó không phải là mục tiêu dễ đạt được khi chẩn đoán quá mức và bệnh nhân đã bị điều trị hoặc làm hại một cách không cần thiết.

Nhưng Tiến sĩ Kramer chỉ ra một số người ủng hộ bệnh ung thư vú đã thẳng thắn nói về tác hại tiềm ẩn của việc chẩn đoán quá mức. Ông nói, sự ủng hộ như vậy trong lĩnh vực này đang dần tạo ra sự khác biệt.

Mặc dù có thể có quan điểm cho rằng chẩn đoán quá mức chỉ giới hạn ở một số bệnh ung thư phổ biến như ung thư tuyến tiền liệt và ung thư vú, nhưng Tiến sĩ Kramer cho biết không phải vậy.

Ông chỉ ra những ví dụ khác, chẳng hạn như ung thư tuyến giáp và khối u ác tính, cũng như những bệnh khác, “nơi chúng ta đã thấy tỷ lệ mắc bệnh tăng nhanh mà không có sự giảm tỷ lệ tử vong đồng thời trong hơn một thập kỷ trở lên. Đó là những ví dụ kinh điển về chẩn đoán quá mức.”